1. Thiết kế ao nuôi
- Vị trí ao nuôi:
+ Ao nuôi cá trê phải được đặt gần nguồn cấp nước tốt (sông, kênh rạch), tránh xa các nguồn gây ô nhiễm, khu công nghiệp.
+ Ao không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Độ phèn (pH) của nước trung tính và dao động từ 6,5 - 7,5.
+ Ao phải gần nhà để tiện việc quản lý và chăm sóc.
- Diện tích ao nuôi tùy vào điều kiện của nông hộ, tuy nhiên tốt nhất là ao có diện tích từ 300 m2 trở lên.
+ Độ sâu của ao từ 1 - 1,5 m. Ao phải có cống cấp và thoát nước.
+ Ao tốt nhất có dạng hình chữ nhật với chiều dài gấp 3 - 4 chiều ngang.
+ Xung quanh ao phải thoáng, không có cây cối rậm rạp. Trường hợp ao nuôi cá nằm trong vườn, cần phải chặt bỏ các cây xung quanh ao để ao được thoáng.
+ Trong ao nuôi cá trê nên thiết kế 1 hay nhiều nơi cho cá ăn, đó là các sàn cho cá ăn . Việc này sẽ giúp ích cho việc theo dõi cá ăn và điều chỉnh lượng thức ăn.

2. Chuẩn bị ao nuôi
Trước khi thả cá ao cần được chuẩn bị kỹ theo các bước sau:
- Vét hết lớp bùn đáy ao, kiểm tra kỹ bờ ao, cống bộng, gia cố bờ ao, làm sàn ăn cho cá, rào lưới xung quanh.
- Bón vôi bột với liều lượng 10 - 15 kg/100 m2. Nếu là ao đã nuôi cá trước vài vụ thì có thể tăng lượng vôi lên 20 kg /100 m2 để đảm bảo tẩy trùng cho ao.
- Nếu có điều kiện phơi ao 3 - 5 ngày, sau đó cấp nước vào ao với mức nước ban đầu là 1 - 1,2 m. Dùng Vikon A với liều 1g/m3 nước tạt đều khắp ao, để diệt khuẩn nước ao nuôi.
3. Chọn giống và thả giống
- Chọn cá giống:
Cá không bị dị tật, màu sắc tươi sáng, cá nhanh nhẹn, bơi lội khoẻ và chạy thành đàn.
- Kích cỡ và mật độ thả nuôi: Cá giống thả nuôi phải đều cỡ. Kích cỡ cá thả nuôi tốt nhất là 6 - 8 cm thường được thả nuôi với mật độ từ 8 - 10 con/m2. Trong điều kiện nguồn nước tốt và thức ăn đầy đủ có thể thả nuôi với mật độ 15 - 20 con/ m2.
- Thả giống
Thời vụ thả nuôi thích hợp nhất từ tháng 6 - 7 hàng năm, vì đây là mùa sinh sản của cá trê nên chất lượng con giống sẽ tốt hơn so với các thời điểm khác trong năm.
4. Thức ăn và cách cho ăn
- Thức ăn:
+ Thức ăn cho cá thay đổi tùy vào giai đoạn phát triển của cá. Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thức ăn công nghiệp dạng viên nổi, đây là một nguồn thức ăn tốt cho việc nuôi cá trê thâm canh trong ao. Chúng có những ưu điểm như hàm lượng các chất dinh dưỡng đầy đủ và ổn định, dể bảo quản và giảm chi phí nhân công. Tuy nhiên, thức ăn viên công nghiệp hiện nay chưa được người nuôi sử dụng nhiều vì giá cao. Thức ăn viên sử dụng cho nuôi thịt cá trê phải có hàm lượng đạm lớn hơn 22 %.
+ Các loại thức ăn dạng ẩm sử dụng để nuôi cá trê sau khi chế biến phải được cho cá ăn ngay trong ngày, vì thức ăn ẩm rất dễ bị hư do tác động của các vi sinh vật.
+ Bà con tận dụng công lao động nhà, kiếm thêm thức ăn như ốc bươu vàng bổ sung thêm cho cá ăn, để giảm chi phí thức ăn.
- Cách cho cá ăn:
+ Nên tập cho cá ăn tập trung tại các sàn cho cá ăn. Rải thức ăn ít và chậm cho cá ăn hết thức ăn mới rải tiếp. Khi cá không còn tập trung lại ăn là dấu hiệu cá đã no, thì ngừng cho ăn.
+ Lượng thức ăn cho 2 tháng đầu của chu kỳ nuôi là 5 - 7 kg/100 kg cá và cho các tháng sau của chu kỳ nuôi là 3 - 5 kg/100 kg cá. Cho ăn 2 - 4 lần trong ngày.
5. Quản lý ao nuôi
- Theo dõi mức độ ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, điều này rất dể quan sát vì cá trê ăn tập trung một chỗ khi đã no chúng sẽ tản ra xa do đó có thể tính toán được lượng thức ăn cần thiết cho cá.
- Mặc dù cá trê có sức chịu đựng cao và thích ứng tốt với sự thay đổi của môi trường nuôi, nhưng trong mô hình nuôi thâm canh với mật độ rất cao việc tuần tra, theo dõi hoạt động của cá nuôi phải được thực hiện thường xuyên.
- Những biểu hiện không tốt của cá trong ao nuôi như: cá nổi đầu, bơi lờ đờ, cá bỏ ăn hay cá có biểu hiện bệnh và chết phải được xử lý với những biện pháp thích hợp. Luôn giữ nguồn nước ao sạch và ổn định.
- Cần hạn chế sử dụng các loại thuốc kháng sinh trong nuôi cá trê vì thuốc làm giảm tốc độ tăng trưởng của cá và làm tăng giá thành sản phẩm.
6. Phòng trị bệnh cho cá trê
- Bệnh nhầy da:
+ Nguyên nhân và triệu chứng: Khi nhiễm bệnh cá bột bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn. Da có đám chất nhầy. Bệnh này do ký sinh trùng.
+ Điều trị: dùng Fomalin với liều 25g/m3 tạt đều khắp ao. Sau 3 ngày thay 50% nước và xử lý lại lần nữa. Kết hợp với sử dụng kháng sinh Hadaclean với liều: 5gram/1kg thức ăn cho ăn liên tục 5-7 ngày.
- Bệnh trắng da khoang thân:
+ Nguyên nhân và triệu chứng: Khi mắc bệnh cá bột thường nổi trên mặt nước, da bị loét, Thân có những đám vệt trắng. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra.
+ Điều trị: Dùng Vikon A với liều 1g/m3 nước để diệt khuẩn nước ao kết hợp sử dụng kháng sinh sulphamid 4g/1 kg thức ăn + Vitamine C với liều 4g/1kg thức ăn, thuốc được trộn vào thức ăn, cho ăn liên tục từ 5 -7 ngày.
- Bệnh ngoại ký sinh:
- Nguyên nhân và triệu chứng: Bệnh do các sinh vật rất nhỏ bám vào mang, da của cá để hút máu hoặc chất dinh dưỡng gây nên những vết thương, xuất huyết. Khi bị bệnh màu sắc cá trở nên nhợt nhạt, cá thích tập trung ở nơi có đường nước chảy. Bệnh xuất hiện khi mật độ nuôi dầy, điều kiện vệ sinh kém, mưa kéo dài, thời tiết lạnh.
- Phòng bệnh: Khi lấy nước vào ao để khoảng từ 7 - 10 ngày để các loại trứng ký sinh nở thì ta tiến hành diệt bằng hoá chất như: Đồng sulphat ( CuSO4 ), liều dùng 0,5 gram/1m3. Cá giống trước khi thả nuôi phải tắm cá qua nước muối nồng độ 3% (300 gram/10 lít nước) tắm trong 5 - 10 phút để diệt khuẩn và ký sinh trùng bám trên cá.
- Trị bệnh: Dùng thuốc trị bệnh ký sinh trùng như sulphat đồng (CuSO4), liều dùng 0,5 gram/1m3. Sau 3 ngày thay 50% nước và xử lý lại lần nữa. Kết hợp với sử dụng kháng sinh Hadaclean với liều: 5gram/1kg thức ăn cho ăn liên tục 5 - 7 ngày.
- Bệnh lở loét (Hội chứng lở loét):
+ Nguyên nhân: do nhiều nguyên nhân kết hợp như siêu vi (virus), vi khuẩn, nấm thuỷ mi, giáp xác ký sinh, môi trường nước quá dơ bẩn, nhiệt độ thay đổi …
+ Triệu chứng: Cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước, da cá nhợt nhạt và xuất hiện các vết loét dần dần lan rộng có thể ăn sâu đến xương. Cơ quan nội tạng hầu như không bị thương tổn.
+ Phòng bệnh: Luôn giữ môi trường sạch, định kỳ 15 ngày tạt vôi bột CaCO3 với liều 4 kg/100m3 (vôi hoà tan trong nước tạt đều khắp ao) hoặc dùng các hoá chất diệt khuẩn như Virkon A với liều 1g/m3 nước định kỳ 20 ngày/lần. Khi trong khu vực xảy ra dịch bệnh cần hạn chế thay nước hoặc khi thay nước phải được khử trùng trước khi đưa vào ao nuôi.
+ Trị bệnh: Dùng thuốc tím với liều 5g/m3 kết hợp với muối ăn 0,3kg/m3 tạt xuống ao để xử lý nước. Đồng thời dùng kháng sinh Sulphamix hoặc Vimerocin trộn vào thức ăn với liều: 4gram/1kg thức ăn, cho ăn liên tục từ 5 - 7 ngày.
7. Thu hoạch
Sau thời gian 3,5 - 4 tháng nuôi cá trê sẽ đạt kích cỡ thương phẩm. Có thể thu tỉa dần những cá lớn, để cá nhỏ lại tiếp tục nuôi hoặc thu toàn bộ cá trong ao. Năng suất cá trê nuôi thường đạt 5 - 15 kg/m2. Ngoài ra cá trê còn có thể nuôi ghép với một số loài cá khác. Một số mô hình nuôi ở cá trê kết hợp với heo, gà, vịt hay ruộng lúa, ao sen, mương vườn cũng mang lại hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó hình thức nuôi cá trê trong lồng cũng cho năng suất cao.
Trần Thanh Hải